Qua thực tế công tác kiểm soát chi NSNN và thanh tra, kiểm tra sử dụng NSNN của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Thái Bình, chúng tôi nhận thấy còn có những cách hiểu và áp dụng khác nhau về chế độ công tác phí, đặc biệt là về nội hàm của công tác phí, điều kiện được thanh toán công tác phí. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi trao đổi những nội dung cơ bản, khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc thanh toán công tác phí.
Công tác phí là một trong những khoản chi thường xuyên trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các đối tượng sử dụng NSNN. Mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng chi ngân sách nhưng có liên quan trực tiếp đến lợi ích của công chức, viên chức và hiệu quả công việc của các cơ quan, đơn vị. Vì vậy, hiểu và thực hiện đúng chế độ công tác phí là đảm bảo quyền, lợi ích của người đi công tác và các quy định của nhà nước về chi NSNN, góp phần thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, đồng thời tránh được các rủi ro trong kiểm soát chi NSNN.

Nội dung cơ bản của công tác phí
Theo Thông tư số 40/2017/TT[1]BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị thì công tác phí là khoản chi phí để trả cho người đi công tác trong nước (Thông tư 40). Nội dung của công tác phí gồm có: Chi phí đi lại, phụ cấp lưu trú, tiền thuê phòng nghỉ nơi đến công tác, cước hành lý và tài liệu mang theo để làm việc (nếu có).
Về chi phí đi lại: Là chi phí cho việc di chuyển của người đi công tác để phục vụ cho chuyến công tác. Theo Thông tư 40, chi phí đi lại được áp dụng một trong ba hình thức thanh toán sau:
Thanh toán khoán kinh phí sử dụng ô tô khi đi công tác: Áp dụng đối với các chức danh lãnh đạo có tiêu chuẩn sử dụng xe ô tô khi đi công tác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ tại Nghị định số 04/2019/NĐ[1]CP ngày 11/01/2019 của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô (Nghị định 04). Mức thanh toán khoán kinh phí sử dụng xe ô tô khi đi công tác thực hiện theo quy định tại Thông tư số 24/2019/ TT-BTC ngày 22/04/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung của Nghị định 04.
Khoán tiền tự túc phương tiện đi công tác: Đối với công chức, viên chức không có tiêu chuẩn được bố trí xe ô tô khi đi công tác cách trụ sở cơ quan từ 10 km trở lên (đối với các xã thuộc địa bàn kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn theo các quy định của Chính phủ) và từ 15 km trở lên (đối với các xã còn lại) mà tự túc bằng phương tiện cá nhân thì được thanh toán khoán tiền tự túc phương tiện bằng 0,2 lít xăng/ km, tính theo khoảng cách địa giới hành chính và giá xăng tại thời điểm đi công tác và được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị theo quy định tại Mục b, Khoản 2, Điều 5 Thông tư 40.
Thanh toán theo hóa đơn thực tế: Trường hợp công chức, viên chức đi công tác không có tiêu chuẩn được bố trí xe đi công tác, đi công tác bằng phương tiện cá nhân mà sử dụng các dịch vụ vận tải thì thực hiện thanh toán chi phí đi lại theo hóa đơn thực tế. Các trường hợp thanh toán phải có hóa đơn hợp pháp, hợp lệ theo quy định làm căn cứ xác định được chi phí thực tế phát sinh. Mức thanh toán: Theo giá ghi trên vé, hoá đơn, chứng từ mua vé hợp pháp theo quy định của pháp luật, hoặc giấy biên nhận của chủ phương tiện; giá vé không bao gồm các chi phí dịch vụ khác như: Tham quan du lịch, các dịch vụ đặc biệt theo yêu cầu.
Hình thức thanh toán chi phí đi lại đối với người được cử đi công tác là do thủ trưởng đơn vị quyết định trên cơ sở Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị và các quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Về phụ cấp lưu trú: Phụ cấp lưu trú là khoản tiền hỗ trợ thêm cho người đi công tác ngoài tiền lương do cơ quan, đơn vị cử người đi công tác chi trả, được tính từ ngày bắt đầu đi công tác đến khi kết thúc đợt công tác trở về cơ quan, đơn vị (bao gồm thời gian đi trên đường, thời gian lưu trú tại nơi đến công tác).
Điều 6 Thông tư 40 quy định: Mức phụ cấp lưu trú để trả cho người đi công tác là 200.000 đồng/ngày. Trường hợp đi công tác trong ngày (đi và về trong ngày), mức phụ cấp lưu trú do thủ trưởng cơ quan quyết định dựa trên các tiêu chí: Căn cứ theo số giờ thực tế đi công tác trong ngày, theo thời gian phải làm ngoài giờ hành chính (bao gồm cả thời gian đi trên đường), quãng đường đi công tác và được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan, đơn vị.
Công chức, viên chức và người lao động ở đất liền được cử đi công tác làm nhiệm vụ trên biển, đảo thì được hưởng mức phụ cấp lưu trú: 250.000 đồng/người/ngày thực tế đi biển, đảo (áp dụng cho cả những ngày làm việc trên biển, đảo, những ngày đi, về trên biển, đảo). Trường hợp một số ngành đặc thù đã được cấp có thẩm quyền quy định về chế độ chi bồi dưỡng khi đi công tác trên biển, đảo thì được chọn chế độ quy định cao nhất (phụ cấp lưu trú hoặc chi bồi dưỡng) để chi trả cho người đi công tác.
Về tiền thuê phòng nghỉ nơi đến công tác: Tiền thuê phòng nghỉ nơi đến công tác là chi phí thuê phòng nghỉ cho người đi công tác tại nơi đến công tác. Điều 7 Thông tư 40 quy định: Tiền thuê phòng nghỉ nơi đến công tác được áp dụng thanh toán theo tiêu chuẩn chức danh và theo địa phương nơi đến công tác và được áp dụng theo hai hình thức là thanh toán theo hình thức khoán hoặc thanh toán theo hóa đơn thực tế. Mức tiền thuê phòng được tính theo ngày và theo người.
Về cước hành lý và tài liệu mang theo để làm việc: Cước hành lý và tài liệu mang theo để làm việc là chi phí thuê vận chuyển hành lý, tài liệu mang theo để làm việc. Theo quy định tại Điều 5 Thông tư 40, cước hành lý và tài liệu mang theo để làm việc được thanh toán theo hóa đơn thực tế. Trường hợp cơ quan, đơn vị nơi cử người đi công tác và cơ quan, đơn vị nơi đến công tác đã bố trí phương tiện vận chuyển thì người đi công tác không được thanh toán các khoản chi phí cước vận chuyển.
Trong thực tế, mỗi lần đi công tác có thể phát sinh cả 04 nội dung chi phí hoặc phát sinh ít hơn nhưng ít nhất sẽ phát sinh 02 nội dung là chi phí đi lại và phụ cấp lưu trú. Như vậy, tối thiểu công chức, viên chức, người lao động sẽ được thanh toán chi phí đi lại và phụ cấp lưu trú. Điều kiện thanh toán công tác phí được quy định tại Điều 3 Thông tư 40 là: Thực hiện đúng nhiệm vụ được giao; được thủ trưởng cơ quan, đơn vị cử đi công tác hoặc được mời tham gia đoàn công tác; có đủ các chứng từ để thanh toán theo quy định tại Thông tư 40.
Theo đó, những trường hợp công chức, viên chức, người lao động trong thời gian điều trị, điều dưỡng tại cơ sở y tế, nhà điều dưỡng, dưỡng sức; những ngày học ở trường, lớp đào tạo tập trung dài hạn, ngắn hạn đã được hưởng chế độ đối với người đi học; những ngày làm việc riêng trong thời gian đi công tác; những ngày được giao nhiệm vụ thường trú hoặc biệt phái tại một địa phương hoặc cơ quan khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền sẽ không được thanh toán công tác phí.
Căn cứ tiêu chuẩn quy định tại Mục b, Khoản 2, Điều 5 Thông tư 40, điều kiện để được thanh toán công tác phí không phụ thuộc vào độ dài quãng đường đi công tác, việc đi công tác qua đêm hay về trong ngày mà phụ thuộc vào từng lần đi công tác mà người đi công tác có thể được thanh toán toàn bộ 4 nội dung chi phí hoặc ít hơn. Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng quy định về thanh toán công tác phí, đã phát sinh một số vướng mắc này sinh cần được làm rõ:
Đối với trường hợp đi công tác cách trụ sở cơ quan dưới 10 hoặc 15 km tùy theo từng địa bàn, có quan điểm cho rằng trường hợp này đương nhiên không được thanh toán công tác phí. Như vậy có nghĩa là người đi công tác không được thanh toán bất cứ nội dung nào của 04 nội dung công tác phí nêu trên.
Căn cứ quy định tại Mục b, Khoản 2, Điều 5 Thông tư 40 chỉ là điều kiện để được áp dụng mức khoán tiền tự túc phương tiện đi lại, chứ không phải là điều kiện được thanh toán công tác phí cũng như quy định không được thanh toán công tác phí. Vì vậy, về lý thuyết, nếu lần đi công tác có phát sinh đủ 04 nội dung chi phí hợp lệ, thì công chức, viên chức, người lao động đi công tác vẫn được thanh toán đủ 04 nội dung chi phí (nếu có), chỉ không được áp dụng hình thức khoán tự túc phương tiện (chi phí đi lại) với mức là 0,2 lít xăng/1km, mà phải thanh toán theo hóa đơn thực tế. Đây là một vướng mắc cần xem xét, bởi lẽ cùng một quãng đường (dưới 10 hoặc 15 km theo quy định) nếu có phương tiện vận tải công cộng để sử dụng thì người đi công tác sẽ được thanh toán chi phí đi lại. Còn với trường hợp buộc phải sử dụng phương tiện cá nhân (do không có phương tiện công cộng) thì lại chưa có quy định việc thanh toán chi phí đi lại như thế nào. Theo chúng tôi, cần có quy định cụ thể hơn, phù hợp với thực tế hiện nay.
Theo quy định, chi phí thuê phòng nghỉ cho người đi công tác được tính trên ngày. Ví dụ: Đi công tác ở quận, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương và thành phố là đô thị loại I thuộc tỉnh: Được thanh toán mức giá thuê phòng ngủ là 1.000.000 đồng/ ngày/phòng theo tiêu chuẩn 2 người/ phòng (đối với các đối tượng còn lại). Theo cách hiểu khá phổ biến hiện nay, nội dung thanh toán tiền thuê phòng nghỉ chỉ áp dụng khi người đi công tác phải nghỉ qua đêm ở nơi đến công tác, không được áp dụng thuê phòng nghỉ đối với trường hợp đi về trong ngày.
Tuy nhiên, tại Khoản 4, Điều 7 Thông tư 40 hướng dẫn như sau: “Trường hợp người đi công tác do phải hoàn thành công việc đến cuối ngày, hoặc do chỉ đăng ký được phương tiện đi lại (vé máy bay, tàu hoả, ô tô) từ 18h đến 24h cùng ngày, thì được thanh toán tiền nghỉ của nửa ngày nghỉ thêm (bao gồm cả hình thức thanh toán khoán và thanh toán theo hóa đơn thực tế) tối đa bằng 50% mức thanh toán khoán tiền thuê phòng nghỉ tương ứng của từng đối tượng…”. Điều đó có nghĩa là không nhất thiết phải nghỉ qua đêm, người đi công tác mới được thanh toán tiền thuê phòng nghỉ tại nơi đến công tác. Đối chiếu với điều kiện được thanh toán công tác phí và quy định về không được thanh toán công tác phí cũng không cấm nội dung này. Vì vậy, việc thanh toán chi phí thuê phòng nghỉ cho người đi công tác trong ngày sẽ do thủ trưởng đơn vị căn cứ vào tình hình thực tế nhu cầu của lần đi công tác mà quy định cho phù hợp (có thể thuê theo tiếng, nửa ngày, hay cả ngày).
Đối với việc thanh toán công tác phí khoán theo lượt đi công tác, thực tế khá phổ biến tình trạng các cơ quan, đơn vị đã xây dựng mức khoán công tác phí theo lượt đi công tác, gộp 4 nội dung chung chi phí thành một khoản khoán công tác phí theo ngày (có quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị) để đơn giản hóa cách tính và thanh toán công tác phí. Ví dụ: Giáo viên trường A đi lên phòng Giáo dục của huyện để họp, tập huấn… thì được thanh toán là 100.000đ/ngày/người. Các đơn vị này không xác định được cơ cấu cụ thể của số tiền khoán này bao gồm những nội dung nào. Cách thức xác định khoán như trên hầu như chỉ mang tính ước lượng, không dựa trên cơ sở tính toán khoa học, không phù hợp về hình thức khoán, không đáp ứng yêu cầu về chứng từ thanh toán công tác phí theo quy định của Thông tư 40.
Bên cạnh đó, theo quy định của Thông tư 40, hình thức khoán công tác phí theo tháng chỉ áp dụng đối với cán bộ cấp xã thường xuyên phải đi công tác lưu động trên 10 ngày/ tháng; cán bộ thuộc các cơ quan, đơn vị còn lại phải thường xuyên đi công tác lưu động trên 10 ngày/tháng (như: Văn thư; kế toán giao dịch; cán bộ kiểm lâm đi kiểm tra rừng; cán bộ các cơ quan tố tụng đi điều tra, kiểm sát, xác minh, tống đạt và các nhiệm vụ phải thường xuyên đi công tác lưu động khác); thì tuỳ theo đối tượng, đặc điểm công tác và khả năng kinh phí, thủ trưởng cơ quan, đơn vị quy định mức khoán tiền công tác phí theo tháng cho người đi công tác lưu động để hỗ trợ tiền gửi xe, xăng xe theo mức 500.000 đồng/người/tháng (không có quy định khoán công tác phí theo ngày) và phải được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Vậy việc khoán công tác phí theo lượt đi công tác đang áp dụng là không đúng quy định tại Thông tư 40. Tuy nhiên, đây cũng là một hình thức có thể phù hợp với một số đơn vị có nhiều công chức, viên chức phải đi công tác định kỳ hoặc đột xuất, nơi đến công tác ổn định (cố định), kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét, có hướng dẫn áp dụng.
Áp dụng chế độ công tác phí trong thực tế hiện nay như thế nào cho phù hợp với thực tế, đơn giản, thuận lợi trong thanh toán nhưng cũng phải đảm bảo minh bạch, đúng quy định là vấn đề cần được xem xét, giải quyết thấu đáo. Việc thực hiện đúng chế độ công tác phí sẽ nâng cao hiệu quả công tác và góp thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng đồng thời góp phần giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, đơn vị. Để thực hiện được vấn đề này ngoài vai trò trách nhiệm của đơn vị sử dụng NSNN, thì vai trò của kiểm soát chi NSNN của kho bạc các cấp cũng rất quan trọng và cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Thông tư số 40/2017/TF-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị;
2. Nghị định số 04/2019/ND-CP ngày 11/04/2019 của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô;
3.Thông tư số 24/2019/TT-BTC ngày 22/04/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung của Nghị định 04.