Trong thời gian qua, công tác quản lý, kiểm soát cam kết chi đã mang lại hiệu quả tích cực trong công tác quản lý và sử dụng NSNN nói chung và quản lý kiểm soát cam kết chi NSNN nói riêng, trong đó có cam kết chi đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, cũng còn một vài nội dung cần phải được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Một số khái niệm về Kiểm soát cam kết chi
Kiểm soát cam kết chi là một thể thức kiểm soát, theo dõi hành vi cam kết chi của đơn vị sử dụng ngân sách nhằm đảm bảo các khoản chi của đơn vị tuân thủ các quy định pháp lý của nhà nước và không vượt quá mức kinh phí được duyệt trong dự toán NSNN năm.
Kiểm soát cam kết chi đầu tư là hoạt động cơ quan kiểm soát chi vốn đầu tư thực hiện việc kiểm soát hoạt động cam kết của chủ đầu tư với nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ về việc sử dụng kế hoạch vốn đầu tư được giao hằng năm theo quy định của Bộ Tài chính.
Hiện nay, các đơn vị sử dụng ngân sách, chủ đầu tư đã tiếp cận được với yêu cầu quản lý mới, chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch dành dự toán, nguồn vốn cho các hợp đồng đã ký kết và quản lý tốt hơn trong việc triển khai thực hiện tiến độ theo nội dung đã cam kết trong hợp đồng, góp phần hỗ trợ lập ngân sách trung hạn của cơ quan tài chính các cấp và các bộ, ngành, địa phương; hỗ trợ việc kiểm soát chi tiêu ngân sách, ngăn chặn nợ đọng trong thanh toán, đảm bảo an ninh tài chính, tăng cường kỷ luật tài khóa…
Một số văn bản hướng dẫn kiểm soát cam kết chi
Theo quy định tại Điều 1 Thông tư số 40/2016/TT-BTC ngày 01/03/2016 của Bộ Tài chính v/v sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 113/2008/TT-BTC ngày 27/11/2008 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn quản lý và kiểm soát cam kết chi NSNN qua KBNN (Thông tư 113) và một số biểu mẫu kèm theo Thông tư số 08/2013/TT-BTC ngày 10/01/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện kế toán nhà nước áp dụng cho Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (Thông tư 40), có quy định một số đối tượng được miễn trừ cam kết chi qua KBNN, trong đó có quy định không thực hiện kiểm soát cam kết chi qua KBNN đối với các khoản chi của ngân sách xã; các dự án, công trình do xã, phường, thị trấn làm chủ đầu tư (bao gồm tất cả các nguồn vốn, thuộc các cấp ngân sách).
Quy định này, mặc dù đã thu hẹp đối tượng phải thực hiện cam kết chi và đồng nghĩa với việc giảm bớt thủ tục, giảm thao tác nghiệp vụ; giảm bớt áp lực công việc đối với công chức KBNN và cả đơn vị sử dụng ngân sách, nhưng không vì thế mà làm mất đi ưu điểm vốn có của chế định về quản lý, kiểm soát cam kết chi NSNN qua KBNN, làm suy giảm ảnh hưởng của cam kết chi đối với việc chống nợ đọng trong thanh toán vốn đầu tư nhất là trong bối cảnh nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ bản ở cấp xã hiện nay rất lớn.
Tại khoản 7, Điều 1 Thông tư 40 quy định về quản lý hợp đồng chi đầu tư như sau:
…“ Hằng năm, chủ đầu tư phải có trách nhiệm xác định số vốn đầu tư bố trí cho từng hợp đồng; đồng thời, được quyền điều chỉnh tăng, giảm số vốn đầu tư bố trí cho từng hợp đồng, đảm bảo trong phạm vi kế hoạch vốn năm đã được cơ quan có thẩm quyền giao và giá trị hợp đồng còn được phép cam kết chi của dự án đó.
Trường hợp hợp đồng được thực hiện trọn trong một năm ngân sách, thì số vốn bố trí trong năm cho hợp đồng đúng bằng giá trị của hợp đồng đó.
Trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ có nhiều loại tiền, thì chủ đầu tư phải có trách nhiệm xác định số vốn đầu tư trong năm bố trí cho hợp đồng chi tiết theo từng loại tiền.
Trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ có nhiều loại nguồn vốn, thì chủ đầu tư có trách nhiệm xác định số vốn đầu tư trong năm bố trí cho hợp đồng chi tiết theo từng loại nguồn vốn”.
Như vậy, quy định chủ đầu tư phải có trách nhiệm xác định số vốn đầu tư bố trí cho từng hợp đồng đối với hợp đồng được thực hiện trong nhiều năm là còn chung chung, chưa quy định cụ thể mức vốn tối thiểu bố trí cho từng hợp đồng so với tiến độ thực hiện khối lượng trong năm đó được quy định trong hợp đồng hoặc so với kế hoạch vốn được giao trong năm.
Do đó, hệ lụy kéo theo là khi cấp có thẩm quyền giao kế hoạch vốn đầu tư và được cơ quan tài chính nhập dự toán và TABMIS, đơn vị chủ đầu tư (ban quản lý dự án) chỉ đề nghị cam kết chi chỉ một phần rất nhỏ (có trường hợp cá biệt chỉ cam kết chi 50 ngàn đồng) so với nhu cầu cần chi trả trong năm kế hoạch, nhằm đối phó việc xử phạt vi phạm hành chính do không thực hiện hoặc thực hiện cam kết chi chậm so với quy định. Sau đó, mỗi lần đơn vị gửi hồ sơ, chứng từ thanh toán vốn đầu tư lại kèm theo Phiếu điều chỉnh số liệu cam kết chi (Mẫu C2-13/NS), điều chỉnh tăng đúng bằng số tiền trên giấy rút vốn đầu tư.
Vì vậy, làm tăng thêm khối lượng công việc không đáng có, làm ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian giải quyết hồ sơ thanh toán, chi trả cho đơn vị thụ hưởng, vì vừa phải kiểm soát cam kết chi lại vừa kiểm soát chi NSNN và nhất là vào thời điểm cuối năm ngân sách.
Về nguyên tắc, đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản có hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ theo chế độ quy định và có giá trị hợp đồng từ 01 tỷ đồng trở lên thì phải được quản lý, kiểm soát cam kết chi qua KBNN (ngoại trừ một số trường hợp được miễn trừ). Như vậy, đối với trường hợp hợp đồng được thực hiện trong 1 năm ngân sách và được bố trí đủ kế hoạch vốn thì vẫn phải được quản lý, kiểm soát cam kết chi qua KBNN. Trường hợp này, nhận thấy là không thật sự cần thiết, rất hình thức, tác dụng mang lại chưa thật rõ ràng.
Hiện tại theo quy định tại Công văn số 507/KBNN-THPC ngày 22/3/2013 của KBNN về việc hướng dẫn thực hiện Thông tư số 113/2008/TT-BTC về quản lý, kiểm soát cam kết chi NSNN qua KBNN (Công văn 507) thì thông tin chung nhà cung cấp trên hệ thống TABMIS do Phòng Hỗ trợ CNTT thuộc Cục CNTT, KBNN (Đội xử lý trung ương) thực hiện. Với những nhà cung cấp chưa được đưa vào hệ thống, khi thực hiện các cam kết chi trên hệ thống TABMIS, KBNN cấp tỉnh phải gửi yêu cầu về đội xử lý trung tâm KBNN trung ương thực hiện, sau đó trung ương chuyển tiếp cho đội xử lý trung tâm KBNN cấp tỉnh thực hiện áp thông tin chi tiết, nên việc khai báo và thiết lập thông tin chung có thể không hoàn thành trong phạm vi 1 đến 2 ngày, dẫn đến thời gian kiểm soát thanh toán sẽ bị kéo dài. Như vậy, việc tiếp nhận kiểm soát cam kết chi và trả kết quả sẽ không đúng thời gian quy định.
Theo quy định tại điểm 4.2.2 mục II Công văn 507 quy định về Quy trình huỷ cam kết chi tại KBNN như sau:
Bước 1: Căn cứ đề nghị của đơn vị , cán bộ kế toán hoặc cán bộ kiểm soát chi kiểm tra các điều kiện quy định tại Tiết 4.2.1, Điểm 4.2, Khoản 4, Mục II Công văn 507, nếu phù hợp thì lập Tờ trình kế toán trưởng hoặc lãnh đạo phụ trách bộ phận kiểm soát chi đầu tư phê duyệt.
Bước 2: Kế toán trưởng hoặc lãnh đạo phụ trách bộ phận kiểm soát chi kiểm tra, nếu đảm bảo đủ các điều kiện quy định thì phê duyệt hủy cam kết chi hoặc huỷ quản lý hợp đồng trên Tờ trình.
Bước 3: Sau khi đề nghị huỷ cam kết chi hoặc huỷ quản lý hợp đồng của đơn vị dự toán hoặc chủ đầu tư đã được kế toán trưởng hoặc lãnh đạo phụ trách bộ phận kiểm soát chi đầu tư phê duyệt, cán bộ kế toán hoặc cán bộ kiểm soát chi đầu tư truy cập vào TABMIS để thực hiện huỷ cam kết chi hoặc hợp đồng trên TABMIS; đồng thời, thông báo cho đơn vị được biết.
Tuy nhiên, tại văn bản nêu trên, KBNN chưa quy định thống nhất một mẫu chung đối với Tờ trình (bước 1) và mẫu Thông báo (bước 3) để thực hiện đồng bộ trong toàn hệ thống. Mặt khác, thực tế khi thực hiện việc hủy cam kết chi hoặc hợp đồng thì công chức kiểm soát chi căn cứ vào Công văn do đơn vị sử dụng ngân sách gửi đến (Mẫu số 03) theo quy định tại Thông tư 113, sau đó thực hiện hành động hủy và đệ trình Lãnh đạo phê duyệt trên hệ thống TABMIS là kết thúc, ngoài ra cán bộ kiểm soát chi và lãnh đạo phụ trách không ký bất kỳ một chứng từ hay văn bản giấy nào để ràng buột tính pháp lý về sau, và để phục vụ cho yêu cầu quản lý khác khi cần thiết. Bên cạnh đó, sau khi công chức kiểm soát chi Kho bạc chấp nhận và thực hiện hành đồng hủy lại không phản hồi dưới dạng văn bản cho đơn vị sử dụng ngân sách biết, vì mẫu số 03 ban hành theo Thông tư 113 thiết kế không có phần ghi của cơ quan Kho bạc.
Kiểm soát cam kết chi đầu tư là một khâu trong quá trình kiểm soát chi NSNN, thủ tục cam kết chi là một thủ tục trong hồ sơ kiểm soát chi của công trình, dự án nhưng hiện nay, có thể nói chúng ta có tới hai quy trình, đó là khi thực hiện kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản thì thực hiện theo Quyết định số 5657/QĐ-KBNN ngày 28/12/2016 của Tổng Giám đốc KBNN về việc ban hành quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư trong nước qua hệ thống KBNN (quy trình 5657) và khi kiểm soát cam kết chi thì thực hiện các bước theo quy định tại Công văn 507. Từ đó, ít nhiều làm ảnh hưởng đến thời gian giải quyết hồ sơ thanh toán; quy trình thực hiện rời rạc, thiếu đồng bộ, không thuận lợi trong quá trình tham chiếu văn bản khi tác nghiệp.
Khuyến nghị
Từ thực tiễn khi thực hiện công tác quản lý, kiểm soát cam kết chi NSNN qua KBNN, xin đưa ra một vài khuyến nghị đối với những thực trạng được nêu trên như sau:
Như chúng ta đã biết ưu điểm lớn nhất của quản lý, kiểm soát cam kết chi NSNN là giữ cho các khỏan chi của đơn vị sử dụng ngân sách không vượt quá mức kinh phí trong dự tóan NSNN được giao hằng năm, đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của đơn vị sử dụng ngân sách, góp phần ngăn chặn tình trạng nợ đọng trong chi tiêu công, củng cố kỷ luật tài khóa.
Vì vậy, kiến nghị Bộ Tài chính sớm sửa đổi, bổ sung tại Điều 1 Thông tư 40 theo hướng mở rộng thêm đối tượng phải thực hiện cam kết chi NSNN qua KBNN đối với các khoản chi của ngân sách xã; các dự án, công trình do xã, phường, thị trấn làm chủ đầu tư (bao gồm tất cả các nguồn vốn, thuộc các cấp ngân sách).
KBNN cần kiến nghị Bộ Tài chính xem xét sửa đổi, bổ sung Điều 1 Thông tư 40. Theo đó, bổ sung thêm đối tượng không phải thực hiện quản lý, kiểm soát cam kết chi qua KBNN (miễn trừ) đối với trường hợp hợp đồng được thực hiện trong một năm ngân sách và được bố trí đủ kế hoạch vốn, nhằm giảm bớt thủ tục, thao tác nghiệp vụ và rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ thanh toán cho khách hàng.
Kiến nghị Bộ Tài chính cần phải quy định rõ hơn trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc xác định số vốn đầu tư bố trí cho từng hợp đồng trong năm kế hoạch, theo đó, ngoài việc đảm bảo khoản đề nghị cam kết chi không được vượt quá kế hoạch vốn năm đã giao cho dự án và giá trị hợp đồng còn được phép cam kết chi, đề nghị cam kết chi đảm bảo đầy đủ các chỉ tiêu thông tin và được gửi trước thời hạn theo quy định… còn phải đảm bảo tính hợp lý, hợp lý ở đây được hiểu là giá trị đề nghị cam kết chi lần đầu và vào đầu năm phải phù hợp với giá trị thanh toán cho hợp đồng đó trong năm theo tiến độ thực hiện khối lượng đã được quy định cụ thể trong hợp đồng và trong phạm vi kế hoạch vốn được giao, nếu không đảm bảo yếu tố này thì KBNN có quyền từ chối đề nghị cam kết chi của đơn vị, nhằm để khắc phục trường hợp đơn vị sử dụng ngân sách chỉ đề nghị cam kết chi chỉ một phần rất nhỏ so với nhu cầu cần chi trả trong năm kế hoạch, và sau đó, mỗi lần đơn vị gửi hồ sơ, chứng từ thanh toán vốn đầu tư lại kèm theo Phiếu điều chỉnh số liệu cam kết chi, điều chỉnh tăng đúng bằng số tiền trên giấy rút vốn đầu tư, làm tăng thêm khối lượng công việc không đáng có, làm ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian giải quyết hồ sơ thanh toán, chi trả cho đơn vị thụ hưởng…
Nhằm giảm bớt thủ tục hành chính khâu trung gian giữa KBNN cấp tỉnh với KBNN, giao tính chủ động hơn và nâng cao vai trò trách nhiệm đối với Đội xử lý trung tâm tỉnh, từ đó rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ thanh toán. KBNN nên ban hành văn bản giao quyền thực hiện chức năng tạo mới thông tin chung nhà cung cấp cho Đội xử lý Trung tâm tỉnh thuộc Phòng chuyên môn KBNN cấp tỉnh thực hiện thay vì như hiện nay về mặt pháp lý là do Phòng Hỗ trợ CNTT thuộc Cục CNTT, KBNN đảm nhận. Như vậy, vừa rút ngắn được thời gian giải quyết hồ sơ thanh toán, vừa ràng buộc trách nhiệm pháp lý được chặt chẽ hơn.
KBNN nên quy định thống nhất mẫu Tờ trình để công chức kiểm soát chi thực hiện trình chứng từ giấy song song với đệ trình phê duyệt trên hệ thống TABMIS, nhằm ghi nhận và ràng buộc tính pháp lý về trách nhiệm cá nhân về sau, đồng thời quy định thống nhất mẫu Thông báo được thực hiện sau khi Kho bạc hoàn tất nghiệp vụ hủy cam kết (hoặc hợp đồng) để phản hồi cho đơn vị sử dụng ngân sách biết là đề nghị hủy CKC/hoặc hợp đồng của đơn vị có được chấp thuận không, thực hiện thời điểm nào… quy định như vậy, sẽ góp phần quản lý, kiểm soát cam kết chi được chặt chẽ hơn. Xin được đề xuất hai mẫu biểu nêu trên như sau:
(1). Mẫu Tờ trình
(2). Mẫu Thông báo
Kiến nghị
KBNN nên thống nhất một quy trình kiểm soát chi NSNN, theo hướng quy định thủ tục cam kết chi nằm trong quy trình kiểm soát chi NSNN (bao gồm cả kiểm soát chi thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ bản chung một quy trình). Như vậy, quy trình sẽ đồng bộ hơn, phù hợp với mô hình thống nhất đầu mối kiểm soát chi hiện nay, tạo thuận lợi hơn trong quá trình tham chiếu khi tác nghiệp, góp phần rút ngắn thời gian kiểm soát hồ sơ thanh toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Nghị định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; KBNN;
- Thông tư số 113/2008/TT-BTC ngày 27/11/2008 hướng dẫn quản lý và kiểm soát cam kết chi NSNN qua KBNN;
- Thông tư số 40/2016/TT-BTC ngày 01/03/2016 của Bộ Tài chính sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 113/2008/TT-BTC ngày 27/11/2008 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn quản lý và kiểm soát cam kết chi NSNN qua KBNN và một số biểu mẫu kèm theo Thông tư số 08/2013/TT-BTC ngày 10/01/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện kế toán nhà nước áp dụng cho Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc;
- Thông tư số 54/2014/TT-BTC ngày 24/04/2014 của Bộ Tài chính quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KBNN theo quy định tại Nghị định số 192/2013/ NĐ-CP ngày 21/11/2013 của chính phủ;
NGUYỄN HỮU ĐỨC