Trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư công tại Việt Nam, nhiều vướng mắc đã phát sinh liên quan đến việc kiểm soát và thanh toán vốn đầu tư công. Bài viết này sẽ phân tích chi tiết các khó khăn chính và đề xuất giải pháp khắc phục, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư công.
1. Vấn đề khấu trừ thuế VAT 1%
Việc khấu trừ thuế VAT 1% được thực hiện theo quy định tại Khoản 5 Điều 13 Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29/9/2021 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm soát và thanh toán, một số điểm cần lưu ý:
- Kho bạc Nhà nước (KBNN) chỉ thực hiện khấu trừ thuế theo đề nghị của Chủ Đầu tư/Ban QLDA/ĐVSDNS, không tự ý tính thuế cho đơn vị.
- Các đối tượng thuộc ngành F của Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thuộc đối tượng khấu trừ thuế.
- Không khấu trừ thuế đối với các gói thầu về tư vấn độc lập, kiểm toán độc lập.
Tổng cục thuế đã có hướng dẫn cụ thể về nội dung và đối tượng để kiểm soát tại Công văn số 828/TCT-CS.
2. Vướng mắc trong thực hiện quy định tại Luật Đất đai 2024
Luật Đất đai số 31/2024/QH14 (có hiệu lực từ 1/8/2024) đã có những quy định mới về việc xử lý tiền bồi thường, hỗ trợ khi người có đất thu hồi không nhận tiền hoặc khi có tranh chấp. Theo đó, tiền bồi thường, hỗ trợ sẽ được gửi vào tài khoản tiền gửi của đơn vị thực hiện nhiệm vụ bồi thường tại ngân hàng thương mại do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.
Tuy nhiên, quy định này có sự khác biệt so với Nghị định số 99/2021/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển số dư tạm ứng về tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư tại cơ quan kiểm soát, thanh toán sau 3 tháng kể từ thời điểm tạm ứng vốn chưa thực hiện chi trả.
Hiện nay, KBNN đang trình Bộ Tài chính về nội dung vướng mắc này và đề nghị KBNN các tỉnh, thành phố tạm dừng thanh toán, chờ hướng dẫn của Bộ Tài chính đối với các khoản tạm ứng thực hiện sau ngày 01/8/2024.
3. Vướng mắc trong kiểm soát thanh toán đối với công tác đền bù, giải phóng mặt bằng (GPMB)
3.1. Vấn đề về kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Theo Thông tư số 61/2022/TT-BTC, đối với các dự án do tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường là đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện, việc xác định kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải được UBND cấp tỉnh hoặc cấp huyện phê duyệt.
Tuy nhiên, Nghị định số 99/2021/NĐ-CP lại quy định cơ quan kiểm soát, thanh toán căn cứ vào quyết toán chi phí cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hàng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt để làm thủ tục thu hồi vốn tạm ứng.
Trong trường hợp này, theo Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sẽ áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, tức là Nghị định số 99/2021/NĐ-CP.
3.2. Vấn đề về hồ sơ kiểm soát, thanh toán
Nghị định số 99/2021/NĐ-CP yêu cầu chủ đầu tư phải gửi cơ quan kiểm soát, thanh toán 3 loại hồ sơ: (1) dự toán chi phí cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, (2) dự toán chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, và (3) phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Tuy nhiên, nhiều chủ đầu tư chỉ gửi hồ sơ (1) và (3), mà không gửi hồ sơ (2). Lý do là Nghị định số 47/2014/NĐ-CP không có quy định về việc lập, thẩm định, phê duyệt dự toán chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
KBNN đã báo cáo Bộ Tài chính về vấn đề này và đề nghị có hướng dẫn cụ thể để KBNN có cơ sở thực hiện.
4. Kiểm soát thanh toán vốn ứng cho Quỹ phát triển đất
Nghị định số 104/2024/NĐ-CP quy định về quỹ phát triển đất (có hiệu lực từ 1/8/2024) đã quy định cụ thể về việc ứng vốn từ Quỹ phát triển đất cho các nhiệm vụ như:
- Thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (trừ các dự án đầu tư bằng nguồn vốn không phải ngân sách nhà nước).
- Tạo lập, phát triển quỹ đất tái định cư, tạo quỹ đất để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất nộp ngân sách nhà nước.
- Thực hiện chính sách hỗ trợ về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Khi thực hiện ứng vốn từ Quỹ phát triển đất, KBNN không kiểm soát hồ sơ. Tuy nhiên, khi đơn vị thực hiện hoàn trả vốn ứng, KBNN sẽ thực hiện kiểm soát hồ sơ, chứng từ theo quy định tại Nghị định số 99/2021/NĐ-CP.
5. Vướng mắc trong kiểm soát thanh toán dự án PPP
Đối với các dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), Nghị định số 28/2021/NĐ-CP quy định rõ về cách thức thanh toán vốn đầu tư công hỗ trợ xây dựng hạng mục công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng.
Cụ thể, vốn đầu tư công chỉ được thanh toán cho khối lượng hạng mục hoàn thành đã được cơ quan ký kết hợp đồng Dự án PPP xác nhận, và phải phù hợp với tỷ lệ các nguồn vốn, giá trị, tiến độ, điều kiện được quy định tại hợp đồng dự án PPP và kế hoạch vốn đầu tư công.
Hồ sơ kiểm soát thanh toán đối với dự án PPP được thực hiện theo Điều 11 Nghị định số 28/2021/NĐ-CP, trong đó yêu cầu có Bảng tổng hợp giá trị khối lượng công việc hoàn thành đề nghị thanh toán do doanh nghiệp dự án PPP lập và được cơ quan ký kết hợp đồng dự án PPP xác nhận.
6. Vướng mắc trong việc thực hiện các biểu mẫu trong kiểm soát thanh toán
Hiện nay, một số chứng từ chưa có biểu mẫu cụ thể, bao gồm:
- Chứng từ thu hồi vốn ứng trước
- Bảng kê chứng từ
- Chứng chỉ thanh toán trong kiểm soát vốn ngoài nước ODA
KBNN đã tổng hợp ý kiến của các KBNN địa phương và gửi Vụ Đầu tư để làm căn cứ sửa đổi Nghị định số 99/2021/NĐ-CP.
Đối với việc sử dụng mẫu chứng từ ủy nhiệm chi trong việc thanh toán từ tài khoản tiền gửi, KBNN đã kiến nghị Vụ đầu tư nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 99/2021/NĐ-CP cho phù hợp. Hiện tại, đối với các dự án sử dụng vốn đầu tư công và các khoản trích từ dự toán vốn đầu tư công, vẫn sử dụng mẫu chứng từ Giấy rút vốn (Mẫu 05/tt).
Kết luận
Quá trình kiểm soát và thanh toán vốn đầu tư công đang gặp nhiều vướng mắc do sự chồng chéo và thiếu đồng bộ giữa các văn bản pháp luật. Việc giải quyết các vấn đề này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Bộ Tài chính, KBNN và các đơn vị liên quan.
Để nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư công, cần có những giải pháp sau:
- Rà soát, sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp luật liên quan để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ.
- Tăng cường công tác hướng dẫn, đào tạo cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm soát, thanh toán vốn đầu tư công.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư công.
- Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan trong quá trình thực hiện dự án.
- Thường xuyên tổ chức các buổi trao đổi, hội thảo để kịp thời nắm bắt và giải quyết các vướng mắc phát sinh trong thực tế.